Tính thống nhất trong tác phẩm Ethics (Đạo đức học) của Aristotle có thể được trình bày như sau: Việc một số tác giả chú ý sử dụng những từ cổ hoặc các nghĩa cổ khiến cho việc đọc sách cũng gây khó khăn không kém việc dịch sách. Trẻ em luôn đặt những câu hỏi kỳ diệu như: Tại sao là con người? Cái gì làm cho con mèo chạy được? Tên ban đầu của thế giới là gì? Thượng đế có lý do để tạo ra trái đất không? Đó là cách thể hiện sự tìm kiếm tri thức của trẻ em.
Khi bạn áp dụng quy tắc này và ba quy tắc trước đó, chắc chắn bạn sẽ hiểu được nội dung cuốn sách. Nội dung của nó thường tập trung vào nhiều kiến thức chuyên ngành mà chỉ một số độc giả học về lĩnh vực đó mới có thể hiểu được. Thứ hai, các bài tóm tắt rất hữu ích khi bạn đọc những cuốn sách cùng chủ đề hoặc khi bạn muốn biết liệu một tác phẩm nào đó có phù hợp với công trình nghiên cứu của mình không.
Thứ ba là vấn đề sử dụng cụm từ. Nhiều người Mỹ ngày nay vẫn phải sống trong những hệ quả không tốt đẹp từ cuộc xung đột vĩ đại và đáng tiếc đó, họ sống trong thế giới được tạo ra một phần vì sự kiện đó. Ví dụ, một bài báo chỉ dài ba trang về DNA nhưng không có bất cứ báo cáo thí nghiệm hay sơ đồ, công thức toán học nào thì độc giả vẫn phải nỗ lực hết mình.
Nếu người đó đã nghiên cứu về chủ đề này thì ngoài việc nói bạn nên đọc đoạn nào, rất có khả năng anh ta sẽ tiện thể nói luôn cách đọc chúng như thế nào và điều này có thể gây khó khăn cho bạn. Sắp xếp theo bảng chữ cái vốn dĩ phù hợp với nội dung một cuốn từ điển. Ví dụ, thi sĩ phải dùng trí tưởng tượng để làm thơ, nhưng người đọc không cần phải tưởng tượng để đọc bài thơ đó.
Tán thành mà không hiểu gì là vô nghĩa, còn phản đối mà thiếu hiểu biết là trơ tráo. Hãy đọc tiểu sử như đọc sách lịch sử, hãy xem những cuốn tự truyện một cách ý nhị và đừng quên là không được tranh luận về cuốn sách cho tới khi đã hiểu cặn kẽ nội dung sách. Trong một cuốn sách thực hành thường xuất hiện những từ như: nên, phải, tốt, xấu, mục đích, phương tiện.
Bạn có thể đọc nhiều thể loại sách khác nhau nên bạn phải thật linh hoạt và có những thay đổi phù hợp khi áp dụng các quy tắc đó. Có thể áp dụng chúng cho bất kỳ tài liệu đáng đọc nào, như một cuốn sách, một bài báo, hay một mẩu quảng cáo. Ngữ pháp và logic gắn kết với ngôn ngữ nhờ mối liên hệ với tư duy, và gắn kết với tư duy nhờ mối liên hệ với ngôn ngữ.
Chúng phải xoá bỏ được mọi rào cản ngăn chúng ta cảm nhận một cách sâu sắc theo đúng khả năng của mình. Sự phân tích đầy đủ các ý kiến bàn luận xung quanh một vấn đề sẽ cho ta biết những vấn đề chính hoặc những luồng quan điểm cơ bản đối lập nhau. Thứ hai, tập hợp nhiều bài về cùng một chủ đề.
Tương tự, bạn không thể vặn lại những quy định của một nhà khoa học chân chính khi đọc tác phẩm của ông ta. Tương tự như trên, chúng ta có thể lập dàn ý với các phần còn lại của Hiến pháp. Một trong số đó là mong ước của độc giả muốn được đọc nhiều tài liệu khác nhau, với tốc độ khác nhau và phù hợp hơn.
Nếu như vậy, ta lại không còn việc gì để làm vì sự nhất trí của các tác giả đã đủ để tháo gỡ vấn đề. Bạn sẽ chỉ cảm nhận được nó khi đọc cả bài thơ chứ không riêng phần nào. Nếu bạn không thể minh hoạ hay mô tả nhận định, dù bằng tưởng tượng hay nêu kinh nghiệm, nghĩa là bạn không biết gì về vấn đề đang được bàn luận.
Tiêu biểu chỉ có thể kể đến các vở bi kịch của Aeschylus, Sophocles và Euripedes, các vở kịch của Shakespeare, các vở hài kịch của Moliere và một vài tác phẩm của số ít nhà văn hiện đại. Nhưng dù là cách nào, mỗi lập luận đều bao gồm một số mệnh đề liên quan đến nhau, theo dạng điều này xảy ra vì điều kia. Nói cách khác, bạn sẽ thấy tìm hiểu một bài thơ không hề khó như bạn tưởng.